đa trí thông minh
Đăng ký thông tin. Tiện ích. Nạp tiền. Thanh toán ngân hàng. Autopay. MobiFone Online. Cước. Tra cước. Lịch sử nạp tiền/thanh toán.
Quạt thông gió ; Đồ sưởi mùa đông Trí Hưng rất xin lỗi về sự bất tiện này. 4 ngõ 77 Bùi Xương Trạch, phường Khương Đình, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội, Việt Nam muasam@trihung.com 0973 083 666 Thời gian làm việc 8:30 - 18:00.
Một dịch vụ chia sẻ xe đạp chỉ cần mở khóa xe đạp thông qua điện thoại di động là có thể thực hiện các chuyến đi ngắn trong thành phố mọi lúc mọi nơi. TNGO đem lại nhiều lợi ích như tăng cường mạng lưới kết nối giao thông công cộng, bảo vệ môi trường, giảm ùn tắc trong đô thị và tăng cường
Trí tuệ nhân tạo là sự hiểu biết và phát triển liên tục của các hệ thống máy tính (Ảnh: Mediastandard) Còn theo Mediastandard, AI được chia làm ba loại gồm trí thông minh nhân tạo hẹp (ANI), trí thông minh phổ biến nhân tạo (AGI) và trí tuệ siêu nhân tạo (ASI).
Lý thuyết thông minh đa diện (MI) đã trở thành mô hình phổ biến để tìm hiểu cách thức tồn tại của trí thông minh con người. Đa trí tuệ Lý thuyết đa trí tuệ - multiple intelligences (lý thuyết MI) nói rằng loài người có 8 loại trí tuệ, ở mức độ thấp hơn hoặc lớn hơn và mỗi chúng ta có một đặc điểm thông minh khác nhau.
miracle letters to the president sub indo bilibili. Nhà bác học Albert Einstein đã từng nói rằng “Ai cũng là thiên tài. Nhưng nếu bạn đánh giá một con cá bằng khả năng leo cây, nó sẽ sống suốt đời với niềm tin rằng nó là kẻ đần độn.” Mỗi người là một cá thể độc lập, họ khác nhau bởi đặc điểm nhận dạng, tính cách, đam mê, sở thích thì hiển nhiên mỗi người cũng sẽ có những năng khiếu, tiềm năng không giống nhau. Nhưng nền giáo dục truyền thống hiện nay chỉ tập trung vào phát triển vào sự logic, với những môn tiêu biểu như toán học, hóa học, lý học,…với cách giảng dạy khuôn mẫu, chuẩn mực. Điều này khiến những học sinh có tài năng khác bị gắn mác là “học sinh yếu”, “kém thông minh”. Với sự phát triển thế giới tập trung vào từng cá nhân thì khuôn mẫu kia cần được phá bỏ, chúng ta nên có cái nhìn đa dạng và mở hơn với những loại trí thông minh khác, năng lực và tài năng khác nhau hơn. Trong bài viết này, Umit sẽ giới thiệu cho các bạn 8 loại hình trí thông minh, điều này sẽ cho bạn cái nhìn mở mang, và sẽ cho bạn nhiều gợi ý để nhìn nhận, thấu hiểu bản thân hơn. 1. Thuyết đa thông minh là gì? 2. 8 loại trí thông minh và nghề nghiệp phù Trí thông minh nội Trí thông minh thị giác, hình ảnh Trí thông minh vận Trí thông minh âm Trí thông minh ngôn Trí thông minh logic toán Trí thông minh thiên Trí thông minh tương tác, giao tiếp3. Trí thông minh thứ 9 có thật hay không?Đăng Ký Làm Sinh Trắc Vân Tay Ngay Nhé! Thuyết đa thông minh hay còn được gọi là đa trí tuệ là một lý thuyết nghiên cứu về trí thông minh của con người được nghiên cứu và công bố bởi tiến sĩ trường Đại học Harvard Howard Gardner. Trí thông minh intelligence được tiến sĩ quan niệm như “là khả năng giải quyết các vấn đề hoặc tạo ra các sản phẩm mà các giải pháp hay sản phẩm này có giá trị trong một hay nhiều môi trường văn hóa”. Ông cũng chỉ ra rằng Trường học nếu chủ đánh giá một đứa trẻ thông qua trí thông minh logic và ngôn ngữ là không chính xác, trí thông minh không thể chỉ được đo lường duy nhất qua chỉ số IQ. 8 chỉ số thông minh 2. 8 loại trí thông minh và nghề nghiệp phù hợp Trí thông minh nội tâm Trí thông minh nội tâm sở hữu khả năng tự nhận thức, xem xét về bản thân. Là người hướng nội, đời sống nội tâm phong phú, có thể dễ dàng tiếp cận và nhìn rõ được những cảm xúc của bản thân. Thích làm việc độc lập, tự giác, thẳng thắn và cầu toàn. Biết rõ điểm mạnh, điểm yếu, thường hay xem xét bản thân và thích trầm tư suy nghĩ, thích tìm hiểu tinh thần một cách sâu sắc. Trí thông minh nội tâm Nghề nghiệp phù hợp Nhà trị liệu, nhà tâm lý học, nhà nghiên cứu về tiềm năng con người, nhà trị liệu triết gia, lãnh đạo tổ chức, chủ doanh nghiệp chủ tịch và CEO. Người làm công tác xã hội, thầy dạy thiền, chuyên viên chăm sóc sức khỏe thần kinh, lãnh đạo về tôn giáo, huấn luyện viên cuộc sống. Nhân vật điển hình Khổng tử, Dalai Lama, Steve Jobs, Plato Trí thông minh thị giác, hình ảnh Trí thông minh hình ảnh, không gian tốt, có khả năng hình dung, liên tưởng đánh giá hình ảnh và không gian. Có trí nhớ hình ảnh, biểu tượng tốt, có thiên hướng nghệ thuật. Khả năng sáng tạo hình ảnh phức tạp, khả năng sắp xếp không gian khu vực, có kĩ năng đọc bản đồ. Trí thông minh thị giác, hình ảnh Nghề nghiệp phù hợp Trang trí nội thất, thiết kế nội thất, thiết kế đồ họa, chuyên vẽ bản đồ, nhiếp ảnh gia, quay phim, kiến trúc sư, phi công, bác sĩ phẫu thuật, điêu khắc gia, thiết kế sân khấu, thiết kế ngoại cảnh, nhà thiết kế thời trang và trang sức, nghệ nhân thêu, người vẽ tranh minh họa cho sách. Nhân vật điển hình Pablo Picasso. Leonardo Da Vinci, Steven Spielberg Trí thông minh vận động Khả năng điều khiển một cách thuần thục, khéo léo các chuyển động của cơ thể. Thích nghi dễ dàng với các hoạt động thể chất như chơi thể thao, nhảy múa. Có xu hướng học, tiếp thu kiến thức, thông tin thông qua vận động thân thể. Trí thông minh vận động Nghề nghiệp phù hợp Vận động viên thể thao, vật lý trị liệu, người mẫu, vũ công, bác sĩ phẫu thuật, nghệ sỹ, giáo viên hướng dẫn thể dục, huấn luyện viên thể thao, nghệ sĩ múa, quân nhân, thợ thủ công, nhà sáng chế, nghệ sĩ xiếc… Nhân vật điển hình David Beckham, Jacky Chan, Nicole David, Tiger Woods. Trí thông minh âm nhạc Trí thông minh âm nhạc Khả năng nhạy cảm sâu sắc với âm nhạc, tiết tấu nhịp điệu, âm vực, giai điệu. Có khả năng hát, chơi nhạc cụ hoặc sáng tác nhạc, học hiệu quả nhất khi nghe nhạc. Nghề nghiệp phù hợp Ca sĩ, nhạc sĩ, giám đốc sản xuất âm nhạc, trị liệu bằng âm nhạc, giáo viên thanh nhạc, nhạc trưởng, kỹ sư âm thanh, đạo diễn phòng thu âm. Nhân vật điển hình Britney Spear, Michael Jackson, Mozart, Beethoven, YoYo Ma. Trí thông minh ngôn ngữ Khả năng sử dụng từ ngữ, câu chữ trong văn viết và văn nói một cách tinh tế và thuần thục. Nhạy cảm với ý nghĩa, cấu trúc, và âm thành ngôn ngữ. Thích đọc, lắng nghe và kể chuyện, sử dụng ngôn ngữ đa dạng. Trí thông minh ngôn ngữ Nghề nghiệp phù hợp ngành nghề phù hợp nhất đối với loại hình thông minh này đó chính là diễn giả, nhà báo, nhà văn, dịch giả, người viết quảng cáo, bình luận viên, chuyên gia tranh luận, biên tập viên, phát thanh viên truyền hình, luật sư… Nhân vật điển hình Anthony Robins, JK Rowling, Oprah Winfrey, Larry King. Trí thông minh logic toán học Điểm nổi bật là có khả năng suy luận, tư duy logic, làm việc với các con số. Khả năng cao trong việc giải toán, chơi cờ, lập trình viên, các hoạt động liên quan tới con số. Có khả năng phân tích vấn đề, xác định nguyên nhân, sự liên kết giữa chuỗi các sự kiện, tìm ra quy tắc giải quyết các bài toán phức tạp dựa trên các khái niệm. Trí thông minh logic toán học Nghề nghiệp phù hợp Kĩ sư khoa học máy tính, lập trình viên, kĩ thuật viên tin học, kế toán, kiểm toán, bảo hiểm, ngân hàng, môi giới chứng khoán, thẩm phán, trọng tài, chuyên viên thống kê, nhà logic học, nghiên cứu khoa học, giáo viên dạy toán. Nhân vật điển hình Isaac Newton, Albert Einstein, Archimedes nhà toán học, Bill Gates Trí thông minh thiên nhiên Trí thông minh thiên nhiên Thích được khám phá thiên nhiên, khả năng hiểu được thế giới tự nhiên như nhận dạng và phân loại vô số chủng loại động thực vật trong môi trường. Nhận thức được tầm quan trọng của môi trường hay nói cách khác là thể hiện sự quan tâm tự nhiên của mình đối với thực vật. Hứng thú với việc làm vườn, sưu tầm lá cây, nuôi động vật. Nghề nghiệp phù hợp Kiểm lâm, hướng dẫn viên du lịch, huấn luyện động vật, thiết kế cảnh quan, bác sĩ thú y, người làm nông nghiệp, nhà khí tượng học, nhà bảo tồn học, quản lý sở thú. Nhân vật điển hình John Muir, Charles Darwin, Rachel Carson. Trí thông minh tương tác, giao tiếp Có xu hướng hướng ngoại, khả năng tương tác giao tiếp cao, khả năng phối hợp cao khi làm việc nhóm, thích thảo luận, dễ kết bạn với mọi người. Luôn tự tin và hứng thú khi tiếp xúc với người khác, thích chia sẻ, giỏi giao tiếp, hiểu và dẫn dắt được những người khác. Trí thông minh tương tác, giao tiếp Nghề nghiệp phù hợp Quan hệ xã hội, Ngoại giao, quan hệ công chúng, chính trị gia, đại lý du lịch, nhân viên bán hàng, marketing, lãnh đạo, tư vấn viên, giáo viên. Nhân vật điển hình Martin Luther King Lr, Mẹ Teresa, Zig Ziglar, Công nương Diana, Gandhi. 3. Trí thông minh thứ 9 có thật hay không? Khi tìm hiểu về thuyết đa thông minh, có rất nhiều trang web sẽ nói rằng Thuyết đa thông minh có 9 trí thông minh. Điều này là không đúng. Tiến sĩ trường Đại học Harvard Howard Gardner đã chỉ ra 8 loại trí thông minh phổ biến của nhân loại như Umit đã đề cập ở trên bài viết. Trí thông minh thứ 9 có thể được nhà nghiên cứu thêm vào trong khoảng thời gian về sau chứ không phải do tiến sĩ đề cập. Cha mẹ nên chú ý trong quá trình tìm hiểu thông tin để tránh có những hiểu lầm và sai sót. Umit đã cung cấp những thông tin cần thiết về 8 loại hình trí thông minh, Umit hy vọng rằng với bài viết này, các bạn có cái nhìn khách quan hơn về sự đa dạng của trí tuệ và hiểu được bản thân hoặc con của các bạn có năng khiếu và tiềm năng ở những lĩnh vực khác nhau. Bài viết cùng chủ đề ➤ Phương pháp tiếp nhận thông tin VAK ➤ Trí thông minh nội tâm ➤ Hướng dẫn chọn nghề theo tính cách ➤ Cách nhận biết bạn thuận não trái hay não phải Đăng Ký Làm Sinh Trắc Vân Tay Ngay Nhé!
Trắc nghiệm đa trí thông minh MI Multiple Intelligences là phương pháp đánh giá trí thông minh nổi trội của mỗi người, dựa trên Lý thuyết đa trí thông minh Theory of Multiple Intelligences nghiên cứu bởi Giáo sư Tâm lý học Howard Gardner. Kết quả trắc nghiệm MI sẽ trả lời cho câu hỏi “Bạn có trí thông minh nổi trội trong lĩnh vực nào?”. Từ đó giúp mỗi cá nhân hiểu bản thân mình hơn, cũng như đưa ra quyết định chính xác không chỉ với lựa chọn nghề nghiệp mà còn với tất cả vấn đề xoay quanh cuộc sống. Tuy nhiên, kết quả này không phải là “hằng số” trong suốt cuộc đời mà có thể sẽ thay đổi tùy vào sự trau dồi của mỗi cá nhân. Trắc nghiệm MI là gì? Là bài trắc nghiệm được dùng để đánh giá và phân loại tố chất theo hệ phân loại Đa Trí thông minh của Howard Gardner, bài Trắc nghiệm MI là công cụ được dùng để nhận diện điểm mạnh cũng như điểm yếu của mỗi cá nhân. Được giới thiệu lần đầu tiên trong quyển sách “Frames of Mind” đã được chuyển ngữ sang tiếng Việt với tên “Cơ cấu Trí khôn” vào năm 1983, lý thuyết Đa Trí thông minh hay Trí thông minh đa dạng Multiple Intelligences của Howard Gardner được chào đón và nhận được sự ủng hộ từ rất nhiều những nhà tâm lý và công chúng trên toàn thế giới. Ở Việt Nam, lý thuyết Đa Trí thông minh được giới thiệu rộng rãi thông qua 2 quyển sách “7 loại hình thông minh” và “Bạn thông minh hơn bạn nghĩ” của tác giả Thomas Amstrong. Với lý thuyết về Đa Trí thông minh, Howard Gardner đã đề xuất ra một góc nhìn mới để đánh giá, cũng như phân loại và đo lường tài năng của con người. “Trí thông minh” không chỉ được hiểu theo nghĩa hẹp là khả năng tính toán số Logic/Toán học hay khả năng ghi nhớ và sử dụng vốn từ vựng Ngôn ngữ, mà giờ được hiểu rằng mỗi cá nhân đều có những tố chất riêng, mà đều có thể được phát triển thành những năng lực tương ứng. Với xuất phát điểm 7 loại hình, hiện tại MI đã được tiếp tục nghiên cứu và phát triển đến 9 loại hình trí thông minh Trí thông minh Xã hội năng lực liên quan đến con ngườiTrí thông minh Nội tâm năng lực liên quan đến nội tâm bản thânTrí thông minh Logic/Toán học năng lực liên quan đến xử lý số và dữ liệuTrí thông minh Ngôn ngữ năng lực liên quan đến sử dụng ngôn từTrí thông minh Không gian năng lực liên quan đến trí tưởng tượng và không gianTrí thông minh Vận động năng lực liên quan đến điều khiển cơ thểTrí thông minh Âm nhạc năng lực liên quan đến âm thanh và giai điệuTrí thông minh Thiên nhiên năng lực liên quan đến các yếu tố trong thiên nhiên, động vật, thực vật, thông minh Triết học Hiện sinh năng lực liên quan đến tư duy trừu tượng và nghiên cứu sâuLý thuyết về Đa Trí thông minh đã được ứng dụng phổ biến trong các trường học ở Mỹ, với mục tiêu thiết kế chương trình giảng dạy và những hoạt động học tập phù hợp, khuyến khích học sinh nhận diện và phát triển những loại hình mạnh của mình, đồng thời biết cách khắc phục những điểm yếu, từ đó có được nền tảng vững vàng cho sự nghiệp trong tương lai.
Trí thông minh là gì? Không phải tất cả chúng ta đều có kỹ năng bẩm sinh giống nhau. Một số giỏi thể thao hơn và có khả năng phối hợp tốt hơn. Một số tiếp thu ngôn ngữ và từ nhanh hơn khi còn nhỏ, trong khi những người khác giỏi với các con số và tìm ra quy luật. Nhưng hầu hết mọi người không hiểu đầy đủ về khả năng của họ và kết quả là họ có thể chọn sai nghề nghiệp. Hoặc, họ có thể thích công việc của mình, nhưng phải khó khăn để tìm ra các kỹ thuật học tập hiệu quả sẽ giúp họ xuất sắc hơn nữa. > Xem thêm 8 Phẩm Chất Của Một Doanh Nhân Khởi Nghiệp Thành Công Thuyết trí thông minh đa diện – Lý thuyết về các loại trí thông minh Để hiểu rõ hơn về các kỹ năng và năng lực của bạn, bạn nên hiểu về với lý thuyết về nhiều trí thông minh trước tiên. Được giới thiệu lần đầu tiên trong cuốn sách “Frames of Mind” năm 1983, Howard Gardner, nhà tâm lý học và giáo sư tại Đại học Harvard, nói rằng có 8 loại hình thông minh của con người – mỗi loại đại diện cho những cách khác nhau mà một người xử lý thông tin tốt nhất. Việc bạn đạt điểm cao trong một hạng mục không nhất thiết ảnh hưởng đến điểm cao hay thấp trong một hạng mục khác. Nếu bạn muốn trở nên đặc biệt ở một lĩnh vực nào đó, cách tốt nhất là bạn phải hiểu được lĩnh vực trí tuệ độc đáo mà bạn có lợi thế, và sau đó xây dựng dựa trên những điểm mạnh đó. Ví dụ hãy xem một người đã gặp khó khăn với công việc viết lách cho đến khi họ cố gắng tưởng tượng câu chuyện bằng hình ảnh và khiến nó trở thành một câu chuyện hấp dẫn. Hoặc một học sinh dường như không thể nắm được kiến thức về phân số cho đến khi họ hình dung được việc tách táo thành từng lát. 8 loại trí thông minh Dưới đây là tám loại trí thông minh được Gardner xác định. Khi đọc từng phần, bạn hãy tự cho điểm trên thang điểm từ một không tốt đến năm rất tốt. 1. Trí thông minh không gian Khả năng suy nghĩ trừu tượng và đa chiều. Cho điểm năm nghĩa là bạn có khả năng lý luận và hình thành khái niệm không gian lớn – điều cần thiết cho các lĩnh vực như kiến trúc, thiết kế đồ họa, nhiếp ảnh, thiết kế nội thất và hàng không. Nghề nghiệp tiềm năng Phi công Thiết kế thời trang Kiến trúc sư Bác sĩ phẫu thuật Nghệ sĩ Kĩ sư > Xem thêm Hướng dẫn chọn chuyên ngành đại học phù hợp Trí thông minh không gian Nguồn Internet 2. Trí thông minh thể chất Khả năng sử dụng cơ thể của bạn theo cách thể hiện năng lực thể chất và thể thao. Nếu bạn có kỹ năng này, bạn có thể trở thành một vận động viên dễ dàng chạy xuống sân và chuyền bóng, hoặc một vũ công thực hiện một cách hoàn hảo những thói quen phức tạp. Nghề nghiệp tiềm năng Vũ công Nhà trị liệu vật lý Vận động viên Thợ cơ khí Thợ xây dựng Diễn viên Trí thông minh thể chất Nguồn Internet 3. Trí thông minh âm nhạc Độ nhạy với nhịp điệu, cao độ, âm sắc, giai điệu. Điều này có thể đòi hỏi khả năng hát và / hoặc chơi nhạc cụ. Những người nổi tiếng sở hữu thông minh âm nhạc bao gồm Beethoven, Jimi Hendrix và Aretha Franklin. Nghề nghiệp tiềm năng Ca sĩ Nhạc trưởng DJ Giáo viên âm nhạc Nhạc sĩ Nhà soạn nhạc Trí thông minh âm nhạc Nguồn Internet 4. Trí thông minh ngôn ngữ Đôi khi được gọi là “trí thông minh ngôn ngữ”, điều này liên quan đến sự nhạy cảm với ý nghĩa của từ, thứ tự giữa các từ và âm thanh, nhịp điệu, sự biến đổi và độ dài của từ. Những người đạt điểm cao trong hạng mục này thường giỏi viết truyện, ghi nhớ thông tin và đọc. Nghề nghiệp tiềm năng Nhà thơ Tiểu thuyết gia Nhà báo Biên tập viên Luật sư Giáo sư ngôn ngữ Trí thông minh ngôn ngữ Nguồn Internet 5. Trí thông minh logic-toán học Khả năng phân tích vấn đề một cách logic, thực hiện các phép toán và điều tra các vấn đề một cách khoa học. Những người có loại hình thông minh này, chẳng hạn như Albert Einstein và Bill Gates, có kỹ năng phát triển các phương trình, chứng minh và giải quyết các vấn đề trừu tượng. Nghề nghiệp tiềm năng Lập trình viên Nhà toán học Nhà kinh tế học Kế toán Nhà khoa học Kĩ sư > Xem thêm Khoa học máy tính – Ngành học tốt nhất trong khối STEM Trí thông minh logic-toán học Nguồn Internet 6. Trí thông minh xã hội Khả năng tương tác hiệu quả với những người khác. Sự nhạy cảm với tâm trạng, cảm xúc, tính khí và động lực của người khác. Về cơ bản, tức là bạn có thể hiểu và liên hệ với những người xung quanh bạn. Nghề nghiệp tiềm năng Quản lý Nhà thương thuyết Chính trị gia Người đại diện Nhân viên kinh doanh Nhà tâm lý học > Xem thêm 5 lý do bạn nên cho con tham gia các lớp diễn thuyết và tranh biện Trí thông minh xã hội Nguồn Internet 7. Trí thông minh thấu hiểu nội tâm Sự nhạy cảm với cảm xúc, mục tiêu và sự lo lắng của chính một người cũng như khả năng lập kế hoạch và hành động dựa trên những đặc điểm của riêng một người. Trí thông minh nội tâm không dành riêng cho những nghề nghiệp cụ thể; đúng hơn, nó là một mục tiêu cho mọi cá nhân trong một xã hội hiện đại phức tạp, khi người ta phải đưa ra các quyết định mang tính hệ quả cho chính mình. Vậy thông minh nội tâm làm nghề gì? Nghề nghiệp tiềm năng Nhà trị liệu Nhà tư vấn Nhà tâm lý học Doanh nhân Triết gia Nhà lý thuyết Trí thông minh thấu hiểu nội tâm Nguồn Internet 8. Trí thông minh tự nhiên Khả năng hiểu được các sắc thái trong tự nhiên, bao gồm sự phân biệt giữa thực vật, động vật và các yếu tố khác của tự nhiên và cuộc sống. Những cá nhân đáng chú ý với thông minh tự nhiên bao gồm Charles Darwin và Jane Goodall. Nghề nghiệp tiềm năng Nhà địa chất Nông dân Nhà thực vật học Nhà sinh học Người bảo tồn Người bán hoa Trí thông minh tự nhiên Nguồn Internet Hiểu và phát triển dựa trên thế mạnh của bạn Nếu bạn gặp khó khăn trong việc đánh giá bản thân, hãy hỏi những người gần bạn nhất để họ quan sát. Hoặc, hãy xem xét những điều bạn đã hướng tới trong thời trẻ. Thông thường khi chúng ta còn là những đứa trẻ, chúng ta chọn các hoạt động liên quan đến khả năng bẩm sinh của chúng ta. Hãy nhớ rằng đây chỉ là một bài tập nhanh chóng và đơn giản để giúp bạn hiểu rõ hơn về điểm mạnh của mình. Các kỹ năng và sở thích hàng đầu của bạn có phù hợp với nghề nghiệp của bạn không? Nếu không, làm thế nào bạn có thể sử dụng chúng để đến nơi bạn muốn? Khi hiểu sâu hơn về tài năng thiên bẩm của mình, chúng ta có cơ hội tốt hơn để tìm ra cách đạt được mục tiêu trong cả cuộc sống cá nhân và nghề nghiệp của mình. Đặc biệt, với những học sinh đang đứng trước lựa chọn nghề nghiệp, ngành học đại học và du học Mỹ, việc hiểu rõ thế mạnh, trí thông minh của bản thân sẽ giúp các bạn đưa ra những lựa chọn trường, chọn ngành hợp lý, tạo tiền đề để phát triển sự nghiệp. Liên hệ ngay với American Study nếu bạn đang quan tâm tới vấn đề hướng nghiệp, chọn trường và ngành học du học Mỹ; lộ trình săn học bổng du học Mỹ. Tùy theo điều kiện và hoàn cảnh, năng lực của từng học sinh, chúng tôi sẽ xây dựng chiến lược một cách phù hợp, hiệu quả nhất. >> Nếu bạn đang muốn du học Mỹ, hãy tham khảo các bài viết sau Phương pháp để điểm GPA thấp vẫn có thể chinh phục đại học Mỹ Bài luận du học Cách tạo nên câu chuyện của riêng bạn Chứng chỉ A-level Bật mí yếu tố tối ưu hồ sơ dành học bổng du học Mỹ Post Views
Tình trạng các chương trình dạy học đang dành tỷ trọng ưu tiên quá lớn cho sự phát triển năng lực ngôn ngữ và logic-toán đã làm giảm bớt khả năng phát triển các dạng trí khôn khác. Howard Gardner 1943 là giáo sư về giáo dục tại Đại học Harvard. Từ nhiều năm nay, ông đã tiến hành những nghiên cứu về khả năng nhận thức của nhân loại. Lý thuyết của ông đi ngược lại với những trào lưu lý thuyết truyền thống về nhận thức. Các lý thuyết trước đây thường dựa trên hai niềm tin cơ bản thứ nhất-năng lực của nhận thức là hoàn toàn xác định; thứ hai-có thể mô tả đầy đủ về mỗi cá nhân thông qua các “thao tác đánh giá định lượng” trí thông minh của Howard Gardner, có những dạng trí năng không đòi hỏi phải đi kèm với trải nghiệm sống; và ngược lại, điều kiện cần thiết để phát triển của một số dạng trí năng lại đòi hỏi phải tích lũy trải nghiệm sống phong phú, bao gồm những tương tác qua lại giữa chủ thể với những cá nhân khác. Ảnh khi đó, những nghiên cứu của Howard Gardner không chỉ chứng minh cho thấy các dạng thức của trí thông minh ở con người phong phú hơn rất nhiều so với những gì chúng ta thường nghĩ, mà còn đưa ra một định nghĩa mới mẻ và rất thực tế về trí thông minh. Thay vì xem “trí thông minh” của con người như một tập hợp kết quả thu được từ một bài “test” được chuẩn hóa, Howard Gardner định nghĩa trí thông minh như sau- khả năng giải quyết các vấn đề thường gặp trong cuộc sống hằng ngày;- khả năng phát hiện ra các vấn đề mới và giải quyết chúng;- khả năng đạt được những thành tựu và cung cấp được những dịch vụ hay giải pháp ứng dụng được một nhóm văn hóa nào đó trong cộng đồng đánh giá nghĩa này cho thấy Howard Gardner nhấn mạnh tới bản chất đa văn hóa trong hệ thống lý thuyết của Frames of Mind tạm dịch "Cơ cấu của trí tuệ”, GS. Howard Gadner công bố các nghiên cứu và lý thuyết của mình về sự đa dạng của trí thông minh. Ảnh adiomaTám dạng trí khônTrong tác phẩm Frames of Mind Theory of Multiple Intelligences xuất bản vào năm 1983 được xuất bản ở Việt Nam dưới tên Cơ cấu trí khôn Lý thuyết về nhiều dạng trí khôn” - Phạm Toàn dịch, NXB Tri Thức ấn hành, lần đầu tiên Howard Gardner trình bày một cách hệ thống về “Lý thuyết trí thông minh đa diện”, một lý thuyết có những đóng góp quan trọng làm nổi bật khía cạnh đa văn hóa trong nhận thức của con người. Có thể mô tả tóm tắt về tám loại hình trí khôn được Howard Gardner đề xuất thuật ngữ “trí năng” được sử dụng dưới đây sẽ được hiểu như là một dạng năng lực của trí tuệ như sau1. Trí năng ngôn ngữ Khả năng nắm bắt và tư duy bằng ngôn ngữ, khả năng diễn đạt bằng ngôn ngữ những vấn đề phức tạp. Các tác giả, nhà văn, nhà báo, diễn giả, người hành nghề quảng cáo… là những người thể hiện năng lực sử dụng ngôn ngữ ở một trình độ Trí năng logic-toán Khả năng tính toán, định lượng, phân tích các mệnh đề và các giả thuyết, khả năng thực hiện những thao tác toán học phức tạp. Các nhà khoa học, nhà quản trị tài chính, kỹ sư, lập trình viên đều đòi hỏi phải sở hữu một trí tuệ logic-toán đủ Trí năng thể chất-vận động Khả năng sử dụng khéo léo các đồ vật, khả năng thực hiện những hoạt động, khả năng thực hiện những động tác của cơ thể với một độ khéo léo và chính xác cao. Trong các xã hội Phương Tây trước đây, các kỹ năng thể chất không được xem là một khả năng nhận thức. Tuy nhiên, như Howard Gardner nhấn mạnh, kỹ năng thể chất, khả năng sử dụng các bộ phận cơ thể trong một số trường hợp là yếu tố sống còn và là tiêu chuẩn quan trọng của một số ngành nghề danh giá, có thể kể ra ở đây các trường hợp của các bác sĩ phẫu thuật, nghệ nhân, vận động viên và vũ Trí năng thị giác-không gian Đó là khả năng tưởng tượng và tư duy trong các không gian ba chiều. Người nào có năng lực thị giác-không gian sẽ dễ dàng cảm nhận và tri giác được các hình ảnh bên ngoài và bên trong, có khả năng tái tạo, chuyển dịch và biến đổi những hình ảnh đã được tri giác đó. Các điêu khắc gia, họa sĩ, kiến trúc sư, phi công, thủy thủ là những người cần tới dạng năng lực Trí năng âm nhạc Các cá nhân sở hữu dạng năng lực trí tuệ này sẽ có một độ nhạy cảm với âm điệu, giai điệu, tiết tấu và những vấn đề về âm thanh nói chung. Các nhà soạn nhạc, nhạc trưởng, nhà phê bình âm nhạc, nhà sản xuất nhạc cụ, các thính giả cao cấp và tinh tế đều là những người sở hữu năng lực dạng Trí năng tương tác xã hội đó là năng lực thấu hiểu người khác và tương tác hiệu quả với họ. Khi nền văn minh Phương Tây bắt đầu phát hiện ra mối quan hệ “thể xác-tinh thần” cũng là lúc nó đề cao tầm quan trọng của tính hiệu quả trong quan hệ tương tác giữa các cá nhân. Dạng năng lực này thường xuất hiện ở những người thầy giỏi, các nhân viên xã hội, các nghệ sĩ và các chính trị Trí năng nội tâm Năng lực trí tuệ được xây dựng dựa trên khả năng tự thấu hiểu bản thân mình và biết cách sử dụng những hiểu biết đó để lên kế hoạch định hướng đúng đắn cho cuộc đời mình. Những cá nhân có được năng lực trí tuệ này thường đi sâu vào các lĩnh vực thần học, tâm lý học hay triết Trí năng thiên nhiên là khả năng quan sát nhậy bén để phát hiện ra những quy luật xuất hiện trong môi trường tự nhiên, biết nhận dạng và phân loại các đối tượng, hiểu được các hệ thống tự nhiên và các hệ thống do con người tạo ra. Trong số những người có trí thông minh tự nhiên vượt trội, người ta thường gặp những nhà nông học, thực vật học, nhà nghiên cứu môi trường, thợ săn và nông Gardner rất cẩn trọng khi nhấn mạnh rằng các dạng trí thông minh của con người không chỉ bó hẹp trong tám dạng mà ông đã nhắc tới. Trong cuốn “Intelligence Reframed” Trí thông minh tái cấu trúc xuất bản năm 1999, Howard Gardner nhận định, chắc chắn còn tồn tại những dạng trí năng khác chưa được nghiên cứu, và nhắc tới những năng lực trí tuệ mà chúng ta có thể đặt tên là “hiện sinh”, “đạo đức” hay “tâm linh”.Trong đó, trí năng “hiện sinh” được đặc trưng bằng thói quen luôn tự vấn về ý nghĩa của cuộc sống và cái chết. Howard Gardner đã không thể xác định được vị trí của nó trong não bộ vì thế ông cho rằng còn quá sớm để đưa nó vào trong danh sách các loại năng lực trí tuệ đã được thừa nhận. Trí năng “đạo đức” liên quan đến “khả năng đưa ra những đánh giá về giá trị” mà Howard Gardner thì luôn cho rằng các dạng trí thông minh mà ông nghiên cứu bản chất là “trung tính” về mặt đạo đức vì thế ông không coi phẩm chất trí tuệ này là một dạng trí năng. Cũng tương tự như vậy, trí năng “tâm linh” cho phép chúng ta nắm bắt các sự thật về vũ trụ, các hiện tượng siêu việt nhưng nó lại phụ thuộc một phần lớn vào năng lực tình cảm của chúng ta. Vì thế Howard Gardner vẫn chỉ dừng lại ở danh sách 8 dạng trí năng kể trên và ông tin rằng chúng đủ để xây dựng một bức tranh về nhận thức chính xác hơn nhiều so với những lý thuyết trước Gardner cũng nhấn mạnh, bản thân mỗi một trong tám dạng trí năng nói trên lại được hợp thành từ những dạng trí năng “thành phần”, ví dụ như trí năng âm nhạc sẽ bao gồm các năng lực như chơi nhạc, ca hát, sáng tác, chỉ huy dàn nhạc, phê bình âm nhạc hay đơn giản chỉ là khả năng thưởng thức âm ta cũng có thể sắp xếp lại 8 dạng trí năng mà Howard Gardner đưa ra và phân chia thành 3 nhánh lớn. Đầu tiên, bốn dạng trí năng trí năng thị giác-không gian; logic-toán học; thể chất-vận động và trí năng tự nhiên có thể xem là những loại năng lực trí tuệ “gắn với đối tượng”, chúng phụ thuộc vào các đối tượng tồn tại trong môi trường và có mối tiếp xúc với con người. Nhánh thứ hai sẽ bao gồm các trí năng “không gắn với đối tượng”, đó là những dạng trí năng ngôn ngữ và âm nhạc. Những dạng trí năng này không được xác định từ môi trường vật lý mà từ những hệ thống như ngôn ngữ và âm nhạc. Và cuối cùng là nhánh thứ ba những trí năng gắn với con người - trí năng tương tác xã hội và trí năng nội dạng năng lực trí tuệ nêu ở trên đều có một quá trình phát triển đặc thù, chúng xuất hiện và nảy nở ở những thời điểm khác nhau của cuộc sống. Trí năng âm nhạc chẳng hạn, đó là một dạng “năng khiếu thiên phú”, sự xuất hiện của nó cho đến nay vẫn luôn là một điều bí ẩn. Howard Gardner đưa ra giả thuyết rằng những thành công trong âm nhạc xuất hiện từ rất sớm ở những “thần đồng” như Mozart có thể giải thích từ việc dạng trí năng này không đòi hỏi phải đi kèm với những trải nghiệm sống. Ngược lại, điều kiện cần thiết để phát triển của trí năng tương tác xã hội và trí năng nội tâm lại đòi hỏi phải tích lũy những trải nghiệm sống phong phú, bao gồm những tương tác qua lại giữa chủ thể với những cá nhân Gardner kiên định lập trường rằng, trí thông minh là độc lập với những đánh giá về đạo đức. Vấn đề đạo đức chỉ xuất hiện câu hỏi “con người này đã sử dụng trí thông minh của mình vào mục đích gì?”. Goebbels kẻ đứng đầu bộ máy tuyên truyền của Đức quốc xã và Gandhi, người sáng lập ra thuyết Bất bạo động đều có một trí năng tương tác xã hội ở mức phát triển rất cao, nhưng hai người này sử dụng những năng lực của mình vào những mục đích hoàn toàn trái ngược nhau. Vì thế cái cách sử dụng trí thông minh của các cá nhân trong xã hội là một vấn đề đạo đức có tầm quan trọng thiết sáng tạo sẽ được thể hiện qua các trí năng đặc thù. Tuy nhiên, theo Howard Gardner, phần lớn các cá nhân chỉ có khả năng sáng tạo trong một vài lĩnh vực nhất định. Ví dụ như Einstein thực sự là một thiên tài về toán học và khoa học, nhưng ở ông, người ta không hề nhìn thấy dấu hiệu xuất sắc nào của những trí năng dạng cơ thể-vận động hay tương tác xã hội. Hầu hết các cá nhân chỉ có thể thành công xuất sắc với một vài dạng trí năng mà họ sở nay, tình trạng các chương trình dạy học đang dành tỷ trọng ưu tiên quá lớn cho sự phát triển năng lực ngôn ngữ và logic-toán đã làm giảm bớt khả năng phát triển các dạng trí khôn khác. Kết quả là những học sinh không thành công trong việc chứng minh khả năng của họ ở những môn học “ chủ lực” nói trên sẽ đánh mất sự tự tin vào chính mình. Những khả năng khác của họ, do không được chú ý khai thác và bồi dưỡng, sẽ bị thui chột, đó là một sự thiệt thòi với cá nhân họ và một sự mất mát đối cho xã cả những kiến thức và kỹ năng cơ bản mà hiện nay tất cả các học sinh được yêu cầu nắm vững ngôn ngữ, toán học, lịch sử và các môn khoa học cũng không nên dạy theo cùng một cách với các đối tượng khác nhau. Sự chán nản, những kết quả kém cỏi chắc chắn sẽ giảm đi nhiều nếu giáo viên cung cấp kiến thức theo những cách thức khác nhau, phù hợp với từng đối tượng. Nhiệm vụ của người giáo viên là phải tìm ra những con đường “hợp lý” đó. Muốn vậy, cần thiết lập một cách tiếp cận “đa phương thức” sao cho mỗi học sinh có cơ hội khám phá các sở thích, năng khiếu và khả năng sáng tạo của mình trong một vài lĩnh vực nào đó. Chương trình giáo dục cần được thiết kế có độ “mở” nhất định, trong đó có tính đến sự phong phú về thiên hướng và sở thích tự nhiên của từng cá nhân học sinh.
13 May, 2021 Giáo dục sớm 486 Số lượt xem Howard Gardner là người đặt nền móng cho việc nghiên cứu các loại trí thông minh của con người. Cùng tìm hiểu rõ hơn về ông cũng như ứng dụng của học thuyết đa trí thông minh của ông trong giáo dục và phát triển cho trẻ. Howard Gardner là ai? Howard Earl Gardner sinh ngày 11 tháng 7 năm 1943 là một nhà tâm lý học phát triển người Mỹ và là giáo sư nghiên cứu về nhận thức và giáo dục của John H. và Elisabeth A. Hobbs tại trường Đại học Giáo dục Harvard tại Đại học Harvard. Ông hiện là giám đốc cấp cao của Harvard Project Zero, và kể từ năm 1995, ông là đồng giám đốc của The Good Project. Gardner đã viết hàng trăm bài báo nghiên cứu và ba mươi cuốn sách đã được dịch sang hơn ba mươi ngôn ngữ. Ông nổi tiếng với thuyết đa trí tuệ, như được nêu trong cuốn sách năm 1983 Frames of Mind The theory of Multiple Intelligences. Howard Gardner định nghĩa thông minh là” khả năng giải quyết các vấn đề hoặc đưa ra những sản phẩm mới có giá trị trong một hay nhiều nền văn hóa khác nhau Gardner&Hatch, 1989. Thuyết đa trí thông minh Ban đầu Howard Gardner đưa ra 7 Trí thông minh. Hai Trí thông minh đầu tiên có giá trị điển hình trong trường học; ba Trí thông minh tiếp theo thường được gắn với nghệ thuật; và hai Trí thông minh cuối cùng được Howard Gardner gọi là “Trí thông minh cá nhân”. Tổng hợp của 7 loại hình thông minh đó là Thông minh về ngôn ngữ Thông minh toán học Thông minh về âm nhạc Thông minh thể chất Thông minh về hội họa không gian Thông minh nội tâm Thông minh về tương tác xã hội Năm 1996 ông tiếp tục đưa ra thêm Trí thông minh về tự nhiên. Hiện nay ông nghiên cứu thêm một loại hình Trí thông minh nữa, đó là Trí thông minh Sinh tồn. Theo Howard Gardner, Trí thông minh đa dạng cho thấy mỗi con người có khả năng biểu đạt tri thức của mình theo 9 cách khác nhau và khi đã biết trí thông minh của mình là gì thì bạn sẽ biết học theo cách tốt nhất là như thế nào. Howard Viết “Tôi muốn những đứa trẻ hiểu về thế giới, nhưng không chỉ vì thế giới rất tuyệt và vì con người luôn rất tò mò, tôi muốn chúng hiểu để có thể làm thế giới tốt đẹp hơn. Kiến thức không giống với giáo lý, nhưng chúng ta cần hiểu để tránh được những lỗi đã xảy ra và tiến lên theo hướng tích cực hơn. Một phần quan trọng trong đó là HIỂU CHÚNG TA LÀ AI VÀ CHÚNG TA CÓ THỂ LÀM ĐƯỢC GÌ. Trên hết, chúng ta phải phân tích những hiểu biết của chúng ta về chính bản thân mình” Sách thuyết đa thông minh của Howard Gardner Thuyết đa trí thông minh của Howard Gardner được việt trong cuốn sách năm 1983 Frames of Mind The theory of Multiple Intelligences. Hiện ở Việt Nam chưa có dịch giả nào dịch nguyên văn cuốn sách này. Tuy nhiên có rất nhiều cuốn sách được xuất bản dựa trên việc khai thác học thuyết này cho trẻ. Các phụ huynh có thể mua sách về thuyết này để dạy cho trẻ trên Fahasa Phần mềm theo thuyết đa trí thông minh Hiện nay nhiều phần mềm xây dựng dựa trên học thuyết này. Dưới đây là một số ví dụ cho các phụ huynh Ứng dụng Dino Đi học Dino Đi học là ứng dụng giáo trí tiền tiểu học đầu tiên áp dụng cách tiếp cận của học thuyết thông minh đa trí tuệ của Howard Gardner lên chương trình chuẩn của Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam trên nền tảng công nghệ hiện đại. Sự kết hợp này vừa giúp tối ưu hóa trải nghiệm của trẻ nhỏ đồng thời thúc đẩy phát triển cùng lúc 8 “trí thông minh” được Howard Gardner đề cập. Qua đó, các em nhỏ sẽ sớm làm chủ 3 giá trị vàng kiến thức, kỹ năng toàn diện, cảm hứng học tập. >>> Phụ huynh tìm hiểu thêm về ứng dụng trong bài viết Dino Đi Học – Tổng Hợp Và Đánh Giá Về Ứng Dụng
đa trí thông minh